Bàn luận về chữ CHÍ
“Có chí thì nên”, câu tục ngữ này có lẽ không người Việt Nam nào là không biết, bởi đó là những câu nói thường ngày của các bậc cha mẹ đối với con cái mình ngay từ khi chúng còn nhỏ, đó cũng là lời khuyên răn được nhiều thầy cô trích dẫn để dạy dỗ học sinh trong các nhà trường… Trong cuộc sống thường nhật, chữ “CHÍ” xuất hiện ở khắp mọi nơi, nó đã hóa thân vào rất nhiều áng văn, tứ thơ để thể hiện tâm hồn cũng như khát khao chung của rất nhiều tầng lớp người từ xưa tới nay.
Với nhà thơ, danh tướng Nguyễn Công Trứ thì “Chí làm trai dặm nghìn da ngựa. Gieo Thái Sơn nhẹ tựa hồng mao”. Còn Bác Hồ lại dạy chúng ta, nhất là cho những người đang tuổi thanh xuân: “Không có việc gì khó, chỉ sợ lòng không bền, đào núi và lấp biển, quyết chí ắt làm nên”,…
Theo từ điển tiếng Việt thì chữ Chí mà chúng ta đang bàn tới có nghĩa là: Ý quyết làm một việc gì, ví như: “Có chí làm quan, có gan làm giàu”.
Ý nghĩa chỉ gói gọn trong lời giảng giải ngắn gọn như vậy, nhưng thực ra, nó tiềm ẩn trong đó rất nhiều ý niệm sâu xa. Chúng ta thử tìm hiểu chữ “Chí” này theo một phong cách cổ điển. Trong chữ Hán và cả trong chữ Nôm thì chữ “Chí” mà chúng ta đang bàn luận (Chí: 志) được cấu thành từ 2 chữ: chữ Sĩ (士) ở trên và chữ Tâm (心) ở dưới.
Theo đó, thì “Chí” chính là nơi để cái tâm vào đó.
Sĩ là người học trò, là những người nghiên cứu học vấn. Đây là tầng lớp được Nho giáo coi trong nhất trong các hạng người (Sĩ, Nông, Công, Thương). Ngày xưa, các triều đình phong kiến thường mở các khoa thi Hương, thi Hội, thi Đình,… để kén chọn nhân tài cho đất nước, dân ta vốn hiếu học, nên dẫu nghèo đói, các bậc cha mẹ thường vẫn cố gắng cho con cháu học hành để mong một ngày nào đó làm rạng danh gia đình, dòng họ. Sĩ tử vì vậy rất được đề cao và quí trọng, nói đến Sĩ người ta thường biết đến họ là những người có trí thức, học vấn, hiểu biết sâu xa.
Còn Tâm, là thuộc về tư tưởng, Phật giáo cho rằng, mọi việc ở đời đều cho tâm người tạo ra cả. Từ đó mà nhà Phật chia tâm thành nhiều thứ, có thể tóm gọn trong hai phần quan trọng nhất: “Vọng tâm”: cái tâm nghĩ ngợi lan man sằng bậy và “Chân tâm”: cái tâm nguyên bản sáng láng linh thông, không cần phải nghĩ mới biết, cũng như tấm gương trong suốt, vật gì soi qua nó là rõ ràng ngay, khác hẳn với cái tâm phải học hỏi mới biết, phải suy nghĩ mới hay.
Như vậy, Chí chính là nơi để trí huệ và cái tâm đặt mình vào đó, cùng song hành, bổ trợ mà hướng cho con người chúng ta đến những điều tốt đẹp nhất.
Hào từ thứ nhất của Quẻ Thuần Càn – Quẻ đứng đầu trong 64 quẻ của Kinh dịch nói rằng : “Tiềm long vật dụng” (Rồng còn ẩn náu, chưa đem tài ra dùng được). Quả thật, người xưa đã bàn đến cái Chí thật thâm sâu, cao minh.
Hình ảnh này, không chỉ là một triết lý hướng dẫn phương cách xử thế cho những người quân tử mà còn thể hiện cái chí của những người học thức: chưa gặp thời thì nên tu đức, luyện tài, không vì thế tục, không vì lợi danh mà ganh đua, không ai biết mình cũng không buồn chán, không vì những tham dục mà đổi chí, luôn luôn kiên định ý chí của mình. Hàn Tín là một danh tướng của Hán Cao tổ Lưu Bang, lúc Hàn Tín còn là kẻ áo vải, nghèo hèn, chí khí của ông ta đã khác thường rồi. Chuyện kể rằng: khi mẹ Hàn Tín mất, nhà nghèo không có gì chôn, nhưng ông vẫn sang sửa cất vào chỗ cao ráo để bên cạnh mộ có thể chứa nổi vạn nhà. Thế mới thấy được cái chí của Hàn Tín cao lớn đến nhường nào.
Hay như Nguyễn Trãi, suốt hơn 10 năm bị giam lỏng ở thành Đông Quan, chịu hết những nỗi khó khăn cơ hàn, cũng như những cám dỗ mật ngọt của giặc Minh, nhưng ông không hệ lụy, cầu thân mà vẫn kiên định ý chí của mình, rằng sẽ trau dồi tài đức, đến một ngày, trả hận cho non sông đất nước, cứu nhân dân ra khỏi lầm than…